Hịch là một thể loại văn học đã có từ thời xưa, thường được dùng để kêu gọi, cổ động mọi người tham gia một phong trào. Trong đó, Hịch tướng sĩ là một trong những tác phẩm thuộc thể loại hịch nổi tiếng của nền văn học Việt Nam với nội dung phản ánh tinh thần yêu nước, căm thù giặc và ý chí quyết chiến quyết thắng kẻ thù xâm lược của nhân dân ta.
Tham khảo nhanh các mục chính
Thể loại hịch là gì?
Hịch là thể văn nghị luận thời xưa, thường được vua chúa và tướng lĩnh viết để cổ động, thuyết phục hoặc kêu gọi đấu tranh chống thù trong giặc ngoài. Thể loại hịch có kết cấu chặt chẽ, lí lẽ sắc bén và dẫn chứng thuyết phục. Đặc điểm nổi bật của hịch là khích lệ tinh thần, tình cảm và có sức thuyết phục người nghe.
Bên cạnh đó, thể loại hịch thường được viết theo thể văn biền ngẫu có vận dụng thể tứ lục (từng cặp câu cân xứng với nhau). Kết cấu của bài hịch có thể thay đổi linh hoạt tùy theo mục đích và nghệ thuật lập luận của tác giả. Nhìn chung bài hịch kêu gọi đánh giặc gồm các phần:
- Phần mở đầu: Có tính chất nêu vấn đề.
- Phần thứ hai: Nêu truyền thống vẻ vang trong sử sách để gây sự tin tưởng.
- Phần thứ ba: Nhận định tình hình, phân tích phải trái để tạo lòng căm thù giặc.
- Phần kết thúc: Nêu chủ trương cụ thể và kêu gọi đấu tranh.
Xem thêm: Tìm hiểu đặc trưng về nghệ thuật của thể loại tùy bút
Giới thiệu về Trần Quốc Tuấn và tác phẩm Hịch tướng sĩ
Trần Quốc Tuấn (1231 – 1300) còn được gọi là Hưng Đạo Vương. Ông là một trong những danh tướng kiệt xuất của dân tộc Việt Nam. Vào năm 1285 và 1288, Trần Quốc Tuấn đã chỉ huy một đội quân đánh tan hai cuộc xâm lược của quân Mông Nguyên. Ông đã lập vô số chiến công lớn với 3 lần đánh tan quân Nguyên và được lưu danh sử sách ngàn năm.
Ông sở hữu phẩm chất cao đẹp, văn võ song toàn và là người làm nến rất nhiều chiến công vang dội cho dân tộc nước ta. Ông được tôn vinh là vị “Đức Thánh Trần” và người dân đã lập đền thờ ở nhiều nơi trên mọi miền đất nước. Không chỉ vậy, Trần Quốc Tuấn còn là tác giả của các tác phẩm nổi bật như Bình Thư Yếu Lược, Đại Việt Sử Ký Toàn Thư.
Tác phẩm Hịch tướng sĩ được viết vào khoảng thời gian trước cuộc kháng chiến chống quân Nguyên – Mông lần thứ hai (1285). Khi đó, giặc Nguyên Mông tiến hành xâm lược nước ta lần thứ hai với lực lượng rất hùng mạnh. Vì vậy, muốn đánh bại chúng phải có sự đồng tình, ủng hộ của toàn quân, toàn dân nên Trần Quốc Tuấn đã viết bài hịch này để kêu gọi tướng sĩ hết lòng đánh giặc.
Nội dung tác phẩm Hịch tướng sĩ
Tác phẩm Hịch tướng sĩ được công bố vào thời gian tháng 9/1284 tại cuộc duyệt binh tại Bế Đông Bộ Đầu trước khi cuộc kháng chiến chống Mông Nguyên lần 2. Tác phẩm tạo nguồn động lực lớn lao cho người dân đồng lòng chiến đấu vì độc lập tự cho, giữ trọn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.
Đây là một áng văn chính luận xuất sắc, với lập luận chặt chẽ, lí lẽ rõ ràng, giàu hình ảnh và có sức thuyết phục cao. Không chỉ vậy, tác phẩm còn kết hợp hài hòa giữa lý trí và tình cảm, cùng lời văn giàu hình ảnh nhạc điệu. Nội dung rất ngắn gọn mà vô cùng sâu sắc, mỗi câu văn đều chứa đựng sự quyết tâm, lòng căm ghét giặc. Bố cục của tác phẩm bao gồm:
Nêu những tấm gương trung thần nghĩa sĩ trong sử sách
Mở đầu bài hịch, tác giả đã nêu lên một loạt các tấm gương “trung thần nghĩa sĩ” đã dũng cảm xả thân vì nước trong lịch sử từ quá khứ xa xưa thời Hán, Đường cho đến thời Tống, Nguyên. Chính điều này đã làm tăng thêm tính thuyết phục về một chân lý phổ biến trong xã hội ở mọi thời đó là đời nào cũng có những anh hùng nghĩa sĩ sẵn sàng bỏ thân để vì nước. Đồng thời tác động tới nhận thức của các tướng sĩ, khơi dậy ý thức trung thành, khéo léo nhắc nhở về bổn phận, trách nhiệm của bậc nam nhi sinh ra trong thời chiến.
Tội ác, sự ngang ngược của kẻ thù và lòng căm thù giặc của tác giả
– Tác giả nêu lên những tội ác của giặc: “Ngó thấy sự giặc đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt tể phụ, thác mệnh Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụa, để thoả lòng tham không cùng, giả hiệu Vân Nam Vương mà thu bạc vàng, vét của kho có hạn, thật khác nào đem thịt mà nuôi hổ đói, sao cho khỏi để tai hoạ về sau!”. Với những hình ảnh ẩn dụ, so sánh, tác giả Trần Quốc Tuấn đã làm nổi bật sự hung hãn, tham lam, tàn bạo của quân giặc; đồng thời thể hiện rõ sự khinh bỉ và lòng căm giận của mình đối với quân giặc.
– Tác giả gọi giặc là “cú diều, dê chó, hổ đói” không chỉ vạch trần sự tham lam, độc ác mà còn vạch rõ dã tâm xâm lược của bọn chúng. Qua đó thể hiện sự khinh bỉ, căm ghét tột độ thái độ của ông vừa căm giận vừa khinh bỉ. Để thể hiện rõ điều đó, tác giả đã sử dụng các hình ảnh ẩn dụ để chỉ bọn giặc, coi chúng như những loài cầm thú như cú diều, dê chó, hổ đói.
– Tấm lòng yêu nước nồng nàn của vị tướng được thể hiện rõ nhất qua hai câu văn: “Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối; ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng”.
Xem thêm: Những thông tin về lịch sử phát triển của thể loại R&B
Phân tích phải trái
Để động viên và khích lệ tinh thần của các tướng sĩ, bên cạnh việc nêu gương sáng của các trung thần nghĩa sĩ bỏ mình vì nước trong sử sách, bày tỏ nỗi lòng của mình, Trần Quốc Tuấn còn khéo khích lệ tướng sĩ:
– Đầu tiên tác giả nhắc lại mối ân tình của mình với tướng sĩ: Không có ăn thì ta cho cơm, không có mặc thì ta cho áo, quan nhỏ thì ta thăng chức, lương ít thì ta cấp bổng; đi thủy thì ta cho thuyền, đi bộ thì ta cho ngựa. Thật hiếm có vị chủ tướng nào lại chăm sóc các tướng sĩ một cách ân cần và chu đáo đến vậy. Điều cảm kích hơn là tình cảm chan hòa hiếm có giữa ông với tướng sĩ lúc trận mạc xông pha thì cùng nhau sống chết, lúc ở nhà nhàn hạ thì cùng nhau vui cười.
– Tiếp đến ông phê phán, trách móc thái độ và hành động thờ ơ, vô trách nhiệm của một bộ phận tướng sĩ trước tình hình nguy nan của đất nước. Tác giả đã phân tích và chỉ ra rất nhiều sự hưởng thụ cá nhân ích kỷ, chỉ biết trốn tránh trách nhiệm đối với đất nước của một số tướng sĩ: nhìn chủ nhục mà không biết lo, thấy nước nhục mà không biết thẹn. Làm tướng triều đình phải hầu quân giặc mà không biết tức; nghe nhạc thái thường để đãi yến ngụy sứ mà không biết căm. Hoặc lấy việc chọi gà làm vui đùa, đánh bạc làm tiêu khiển, hay vui thú vườn ruộng, quyến luyến vợ con.
– Ông nêu lên nhiệm vụ cấp bách bây giờ chính là chăm chỉ huấn luyện, “tập dượt cung tên, khiến cho người người giỏi như Bàng Mông, nhà nhà đều là Hậu Nghệ”. Điều này chẳng những đền được nợ nước thù nhà (bêu đầu Hốt Tất Liệt ở cửa khuyết, làm rữa thịt Vân Nam Vương ở Cảo Nhai) mà còn đem lại lợi ích cho bách gia trăm họ, cho bản thân, gia đình đến muôn đời (Thái ấp ta mãi vững bền; mà bộc lộc các ngươi cũng đời đời hưởng thụ). Không chỉ vậy, gia quyến của ta được êm ấm gối chăn, mà vợ con các ngươi cũng được bách niên giai lão… tên họ các ngươi cũng được sử sách lưu thơm.
Ở phần này, nghệ thuật tương phản được sử dụng vô cùng hiệu quả, một bên phê phán những kẻ thờ ơ vô trách nhiệm và một bên đề cao những con người sống có ý thức với tổ quốc, chăm chỉ rèn luyện.
Kêu gọi tướng sĩ
Sau khi vạch rõ ranh giới giữa hai con đường chính và tà, tác giả đã kêu gọi tướng sĩ cần phát huy ý thức trách nhiệm, danh dự của người làm tướng. Đồng thời cần từ bỏ lối sống cầu an hưởng lạc để chuẩn bị hành động đánh giặc giữ nước mới mong báo đáp ân tình với chủ tướng mới bảo vệ được nền độc lập tự chủ của dân tộc. Yêu nước, trung thành với chủ phải được thể hiện bằng hành động, chăm chỉ tập luyện binh pháp và binh thư. Còn nếu lười biếng, trốn tránh tập luyện, trái lời dạy bảo thì coi như nghịch thù.